Chiều nay, 4/12, thảo luận tại Tổ 6 (gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh Lạng Sơn, Đồng Nai, TP. Huế) về dự án Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế; Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030.
Làm rõ rủi ro chính sách, yêu cầu đánh giá toàn diện các luật có liên quan
ĐBQH Vũ Ngọc Long (Đồng Nai) cho rằng dự thảo nghị quyết về cơ chế phát triển năng lượng quốc gia cần được đánh giá toàn diện hơn, nhất là vì nội dung nghị quyết liên quan đến 12 luật và 01 pháp lệnh, trong khi nhiều luật đang trong quá trình sửa đổi, nguy cơ tạo ra khoảng trống pháp lý nếu nghị quyết mở cơ chế quá rộng đến năm 2030 nhưng các luật được ban hành sau lại có quy định khác, dẫn đến khó khăn trong áp dụng. Đại biểu nhấn mạnh: “Nếu tháo gỡ toàn diện mà không đánh giá đầy đủ, rủi ro sẽ dồn lên người ra quyết định và gây khó cho địa phương.”
Đại biểu đề nghị có thêm cơ chế xử lý đối với nhà đầu tư đăng ký dự án năng lượng tái tạo nhưng chậm triển khai, “giữ chỗ” làm ảnh hưởng quy hoạch; Bổ sung chính sách mạnh mẽ, ổn định cho điện rác - nguồn điện nền quan trọng, vừa giải quyết rác thải đô thị, vừa bổ trợ cho năng lượng tái tạo; Nghiên cứu cấp phép sử dụng tro bay, phụ phẩm năng lượng tái tạo làm vật liệu xây dựng; Thành lập tổ công tác liên ngành để đồng bộ hóa hệ thống luật liên quan đến năng lượng, tránh sửa đổi manh mún.
Bảo đảm tính khả thi, minh bạch và tránh rủi ro pháp lý trong triển khai
ĐBQH Nguyễn Tuấn Anh (Đồng Nai): tập trung phân tích tính khả thi của hai dự thảo nghị quyết, đặc biệt là Luật Tòa án chuyên biệt và cơ chế phát triển năng lượng.
- Đối với Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế:
Đại biểu kiến nghị làm rõ: Quy tắc tố tụng, nhất là tống đạt điện tử, xét xử vắng mặt, và phạm vi phúc thẩm; Cơ chế độc lập của thẩm phán, đặc biệt với thẩm phán nước ngoài và quy định về xung đột lợi ích; Cơ chế áp dụng pháp luật nước ngoài, tiêu chí xác định mối liên hệ gắn bó nhất; Chi phí tố tụng cạnh tranh, phù hợp chuẩn quốc tế; Cơ chế đảm bảo nguồn lực và cơ sở vật chất cho tòa chuyên biệt.
- Đối với cơ chế phát triển năng lượng quốc gia: Đại biểu chỉ rõ 3 nhóm rủi ro: (1) Rủi ro về ổn định quy hoạch nếu cho phép điều chỉnh linh hoạt quá rộng mà không yêu cầu đánh giá môi trường chiến lược; (2) Ưu tiên quá mức cho dự án cấp bách, làm đảo lộn trật tự pháp lý giữa quy hoạch và dự án; (3) Thời gian áp dụng quá dài đến 2030, tạo tâm lý thiếu ổn định trong chính sách.
Đại biểu cũng đề nghị xem xét lại các quy định: Điều kiện vốn quá cao đối với điện gió ngoài khơi; Cơ chế giá trần cứng nhắc, có thể làm giảm tính hấp dẫn của dự án; Các ngoại lệ trong lựa chọn nhà đầu tư cần thu hẹp để đảm bảo minh bạch. Đại biểu nhấn mạnh: “Cơ chế đột phá phải đi kèm tính khả thi và sự minh bạch, mới có thể đảm bảo hiệu quả và bền vững.”
Nhu cầu năng lượng cấp bách và yêu cầu linh hoạt trong triển khai
Từ góc nhìn doanh nghiệp đang vận hành hạ tầng công nghiệp, ĐBQH Huỳnh Thành Chung (Đồng Nai) cho rằng việc bảo đảm đủ năng lượng cho sản xuất là nhu cầu sống còn của doanh nghiệp và nền kinh tế. Thực tiễn tại Đồng Nai, nơi doanh nghiệp lớn đầu tư hàng trăm triệu USD nhưng thiếu nguồn điện, trạm biến áp và hạ tầng truyền tải không theo kịp phụ tải, dẫn tới khó khăn kéo dài nhiều năm.
“Nhu cầu phụ tải của doanh nghiệp là tức thời, nhưng các thủ tục và quy hoạch hiện nay chưa theo kịp thực tế.” Đại biểu đề nghị: Mở rộng hơn các cơ chế truyền tải điện, phân định rõ trách nhiệm giữa các đơn vị và nguồn lực đầu tư. Cho phép nhà đầu tư hạ tầng khu công nghiệp tham gia lĩnh vực lưu trữ năng lượng. Mở rộng các loại hình lưu trữ, không giới hạn ở pin, có thể là muối nung chảy, tích tụ nhiệt vào cát, thác nước,… Bảo đảm quy hoạch truyền tải phải gắn với nhu cầu phụ tải thực tế.
Các ý kiến của Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai đã góp phần quan trọng bổ sung nhiều góc nhìn từ quản lý nhà nước - chuyên môn kỹ thuật - pháp lý - thực tiễn doanh nghiệp, nhằm hoàn thiện các dự thảo nghị quyết của Quốc hội.